Thứ Năm, 12 tháng 6, 2014

Trong hoạt động NCKH, bài báo khoa học đóng một vai trò rất quan trọng, thể hiện khía cạnh: (1) Sản phẩm tri thức đóng góp vào kho tàng tri thức của nhân loại; (2) Một thước đo thể hiện giá trị khoa học của nhà nghiên cứu - khoa học, vì thông qua các bài báo khoa học được công bố, khả năng chuyên môn và năng suất khoa học của nhà nghiên cứu được thể hiện; và (3) Tạo ra giá trị hoàn chỉnh đối với các công trình nghiên cứu khoa học (CTNCKH). Đối với hoạt động khoa học, cho dù công trình đã được nghiệm thu, nếu chưa được công bố trên các tạp chí khoa học thì công trình đó coi như chưa hoàn tất, vì chưa qua "thử lửa" ở môi trường rộng lớn hơn và chưa phổ biến ở những kết quả nghiên cứu của các CTNCKH.
Một số nhà nghiên cứu thực hiện nhiều công trình NCKH, tuy nhiên khi thể hiện thành một bài báo khoa học từ kết quả nghiên cứu thì lại lúng túng và không đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của một bài báo khoa học. Đây cũng là một thách thức cho các nhà nghiên cứu, học viên thạc sĩ, tiến sĩ trong viêc phổ biến các kết quả nghiên cứu của mình cho xã hội. Dựa vào tiêu chuẩn của Hiệp hội ngôn ngữ hiện đại (Modern Language Association, 2011), Hiệp hội tâm lý học Mỹ (American Psychology Association, 2011), tiêu chuẩn Harvard (Đại học Louis Paster Strasburg, 2011), và quy định của các tạp chí khoa học kinh tế chuyên ngành trong và ngoài nước, sau đây Dân Tài Chính sẽ là gợi ý cách trình bày một bài báo khoa học kinh tế nhằm cung cấp thêm cho người đọc thêm một tài liệu tham khảo. Nội dung bài viết này tập trung vào: (1) Hình thức và nội dung của một bài báo khoa học; (2) Cách trích nguồn tài liệu tham khảo.

1. Nội dung bài báo khoa học

Phần lớn các tạp chí khoa học đều áp dụng một dạng thức chuẩn (standard format) cho các bài báo khoa học (scientific papers) thuộc loại chuyên ngành kinh tế, bao gồm những mục sau:
  • Tựa bài
  • Tóm lược và từ khóa
  • Giới thiệu
  • Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
  • Kết quả và thảo luận
  • Kết luận hoặc gợi ý chính sách
  • Tài liệu tham khảo
Mỗi mục đều có chủ đích và đòi hỏi người viết phải đáp ứng yêu cầu nhất định. Tùy theo loại tạp chí khoa học được xếp hạng khác nhau, có những yêu cầu khác nhau. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến yêu cầu của các tạp chí có uy tín quốc gia.

1.1. Tựa bài (Title)
Tựa bài phải nói lên được nội dung chính của bài viết. Một tựa bài không chỉ dừng lại ở mục đích lôi cuốn hấp dẫn độc giả mà còn để nêu bật vấn đề muốn giải quyết. Nếu tựa bài không nói lên được nội dung bài báo, độc giả sẽ không chú ý đến công trình nghiên cứu, và sẽ mất người đọc. Khi đọc tựa bài viết, nhà nghiên cứu nên quan tâm đến những vẫn đề cần tránh: 
(1) Không nên đặt tựa đề một cách mơ hồ; 
(2) Không bao giờ sử dụng chữ viết tắt;
(3) Không đặt tựa đề quá dài; 
(4) Không nên đặt tựa đề như một bài phát biểu;
(5) Tựa đề bài báo nên có yếu tố mới;

1.2. Tóm lược và từ khóa

1.2.1. Tóm lược (Summary or Abstract)
Mục đích của phần tóm lược (tóm tắt) là giúp độc giả nhận biết bài viết có phù hợp với đề tài mà họ đang quan tâm hay không. Phần này được thể hiện thành một đoạn văn duy nhất tóm tắt công trình nghiên cứu của bài báo, ngắn gọn khoảng 100-200 từ. Nội dung nên thể hiện đầy đủ các mặt: 
(1) Tầm quan trọng và mục đích nghiên cứu; 
(2) Phương pháp nghiên cứu sử dụng;  
(3) Những kết quả chính của nghiên cứu.

1.2.2. Từ khóa (Key words)
Từ khóa trong bài báo khoa học là những từ mà bài báo đó cho quan trọng đối với nội dung nghiên cứu của mình và đăc trưng cho chủ đề của bài báo đó. Nên chọn những từ khóa thể hiện được: 
(1) Sử dụng những cụm từ khóa gồm 2-4 từ; 
(2) Tránh những từ khóa quá nhiều người sử dụng; 
(3) Thể hiện sự riêng biệt nhưng đừng quá xa lạ; 
(4) Nên chọn lựa những từ khóa được cho là quan trọng đối với tác giả;

1.3. Giới thiệu (Introduction)

Việc quan trọng trong phần giới thiệu là phải thuyết phục người đọc quan tâm đến  bài báo và kết quả của nghiên cứu, xác định được tầm quan trọng của đề tài. Phần giới thiệu hợp lý khi thể hiện được:
(1) Tầm quan trọng của chủ đề nghiên cứu
(2) Xác định vấn đề nghiên cứu, đặc biệt làm rõ cái mới của nghiên cứu;
(3) Nội dung chính mà bài báo sẽ tập trung giải quyết

1.4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Đây là nội dung chủ yếu, quyết định hàm lượng khoa học của bài báo. Nội dung bao gồm 2 phần: (1) Cơ sở lý thuyết và khung phân tích; (2) Phương pháp nghiên cứu lựa chọn.

1.4.1. Cơ sở lý thuyết và khung phân tích (Theoretical basis and Analysis framework)

Trong nghiên cứu, nhất là lĩnh vực kinh tế, những hiện tượng kinh tế và những vấn đề đặt ra không phải chỉ xuất hiện trong nước, ở hiện tại mà trong phạm vi toàn cầu, cả trong quá khứ và dự báo trong tương lai. Do đó, kế thừa những lý thuyết khoa học kinh tế, những công trình nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới, đó là những nền tảng giúp cho các nhà nghiên cứu định hướng được vấn đề mình cần giải quyết trong phạm vi quốc gia mình, sử dụng các công cụ định tính, định lượng thích hợp để khám phá những kết quả cụ thể. Nếu không có phần này, nghiên cứu sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn, tìm kiếm cái mà từ lâu khoa học đã có hoặc mò mẫm, loanh quanh, lạc lối trong nghiên cứu. Nội dung phần này nên:
(1) Trình bày rõ nguồn gốc lý thuyết liên quan, nhất là tên tác giả, năm công bố, và luận điểm của lý thuyết.
(2) Trên cơ sở kế thừa các lý thuyết và kết quả của công trình nghiên cứu thực nghiệm, tác giả đưa ra khung lý thuyết phục vụ cho nghiên cứu của mình. Khung nghiên cứu nên được thể hiện thành một sơ đồ hoặc kết luận tổng hợp các lý thuyết, kết quả nghiên cứu thực nghiêm liên quan làm nổi bật sự lựa chọn của người viết.

1.4.2. Phương pháp nghiên cứu (Methods)

Nhà nghiên cứu có thể lựa chọn phương pháp nghiên cứu định tính hoặc định lượng tùy theo các tiếp cận mà mình lựa chọn. Trong phần này, chúng tôi lựa chọn các tiếp cận định lượng. Phương pháp nghiên cứu thể hiện hai khía cạnh:
(1) Mô hình định lượng sử dụng trong nghiên cứu
(2) Phương pháp thu thập số liệu.
Khi trình bày mô hình định lượng cần biết công cụ nào được sử dụng, có thể là phân tích thống kê, phương pháp chuyên gia hoặc mô hình kinh tế lượng. Đối với phương pháp thu thập số liệu, nhà nghiên cứu nên thể hiện rõ ràng phạm vi nghiên cứu và cách thức thu thập số liệu. Vì luận cứ khoa học của những giải pháp hoặc gợi ý chính sách phải dựa trên những dữ liệu đại diện cho số đông đối tượng nghiên cứu nên người đọc rất quan tâm tới cách thức thu thập dữ liệu của nhà nghiên cứu.

1.5. Kết quả và thảo luận

1.5.1. Kết quả nghiên cứu (Results)

Mục này tóm tắt những kết quả nghiên cứu và không nên đề cập đến ý nghĩa của chúng. Dữ liệu được trình bày theo dạng bảng biểu, đồ thị, hình vẽ, v.v. Những dữ liệu đã ghi theo bảng không nên trình bày lại theo hình vẽ hay biểu đồ. Mục này nên tập trung vào những xu hướng và khác biệt chính chứ không nên sa vào những chi tiết nhỏ nhặt.

1.5.2. Thảo luận kết quả nghiên cứu (Discussion)

Đây là phần thể hiện sự đóng góp của nhà nghiên cứu bổ sung cho lý thuyết và kiến thức. Nên diễn giải phân tích kết quả và rút ra những mối quan hệ chung, mối liên hệ giữa kết quả nghiên cứu của nhà nghiên cứu với những phát hiện khác trong các nghiên cứu trước đó. Tất nhiên, nhà nghiên cứu cần phải có định hướng nghiên cứu tiếp theo trong tương lai để sáng tỏ vấn đề còn hạn chế trong kết quả của mình.

1.6. Kết luận hoặc (và) gợi ý chính sách (Conclusion/Policy implication)

Tùy theo mục tiêu nghiên cứu, tác giả có thể lựa chọn kết luận hoặc gợi ý chính sách hoặc có thể kết hợp cả hai. Tuy nhiên điều quan trọng là chỉ nên trình bày những gợi ý chính sách từ kết quả nghiên cứu của mình. Giải pháp đề nghị cần phải nhất quán: Lý thuyết - bằng chứng thực nghiệm - giải pháp được thể hiện trong bài báo khoa học.
Cần lưu ý thêm là nếu bài viết hoàn toàn chỉ có kết luận về nội dung đã nêu và phân tích thì tính giá trị lý luận hoặc thực tiễn thấp. Các bài viết cần và nên có phần gợi ý chính sách với những nội dung hay và giải pháp phù hợp với chủ đề nghiên cứu. Đối với các bài viết nghiên cứu kinh tế thuần về lý thuyết thì gợi ý những hướng phát triển lý thuyết.

2. Tài liệu trích dẫn và tài liệu tham khảo

Để tăng thêm giá trị nghiên cứu của bài báo khoa học, tài liệu trích dẫn và tham khảo cần được trình bày phù hợp với tiêu chuẩn của một bài báo khoa học. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau hiện nay nhưng điều quan trọng nhất là trong một bài báo cần trình bày theo duy nhất một cách lựa chọn. Dựa vào tiêu chuẩn Harvard, thực tế áp dụng của các tạp chí khoa học kinh tế ở VN, Dân Tài Chính chia trích dẫn tài liệu tham khảo thành hai dạng:
(1) Trích dẫn trong bài
(2) Trích dẫn trong danh sách tài liệu tham khảo (Reference list)
Danh sách tài liệu tham khảo được đặt ở cuối bài viết, mỗi trích dẫn trong bài viết phải tương ứng với danh mục nguồn tài liệu được liệt kê trong danh sách tài liệu tham khảo.

2.1. Trích dẫn trong bài (in-text reference)

Trích dẫn tài liệu trong bài có nghĩa là chỉ ra trong bài viết của bạn khi nào bạn đã sử dụng dữ liệu, ý tưởng hoặc kiến thức của người khác.
Có hai hình thức trích dẫn trong đoạn văn:
(1) Trích dẫn nghiên văn (quotation): copy chính xác từ ngữ, câu đoạn văn mà tác giả dùng. Câu trích dẫn nguyên văn phải được để trong dấu ngoặc kép và in nghiêng. Trường hợp này bắt buộc phải ghi cả số trang của nguồn trích dẫn. Chi tiết nguồn trích dẫn phải có trong danh mục tài liệu tham khảo ở phần cuối bài báo.
(2) Trích dẫn diễn giải (paraphrasing): Diễn giải câu chữ của tác giả bằng câu chữ của mình, sử dụng từ ngữ khác mà không làm khác đi nghĩa nguyên gốc. Khi trích dẫn kiểu diễn giải thì không cần phải ghi số trang nhưng chi tiết nguồn trích dẫn phải có trong danh mục tài liệu tham khảo ở phần cuối bài báo.

2.2. Trích dẫn trong danh sách tài liệu tham khảo (reference)

Nguồn tài liệu tham khảo cho một bài báo khoa học kinh tế rất đa dạng do đó trình bày trích dẫn tài liệu tham khảo rất phức tạp. Để đơn giản, có thể chia thành ba nhóm tài liệu tham khảo phổ biến có các nguồn khác nhau.

- Tài liệu tham khảo là sách, giáo trình, luận án, báo cáo
Một tài liệu tham khảo dạng này cần phải ghi đầy đủ các thông tin theo trình tự như sau:
Tên các tác giả hoặc cơ quan ban hành (dấu phẩy cuối tên),
(Năm xuất bản) (đặt trong dấu ngoặc đơn, dấu phẩy sau ngoặc đơn),
Tên sách, luận án hoặc báo cáo (in nghiêng, dấu phẩy cuối tên),
Nhà xuất bản - viết tắt NXB (dấu phẩy cuối tên),
Nơi xuất bản (dấu chấm kết thúc).

- Tài liệu tham khảo là bài báo trong tạp chí, bài trong một cuốn sách
Một tài liệu tham khảo dạng này cần phải ghi đầy đủ các thông tin theo trình tự như sau:
Tên tác giả (dấu phẩy cuối tên),
(Năm công bố) (đặt trong dấu ngoặc đơn, dấu phẩy sau ngoặc đơn),
"Tên bài báo" (đặt trong ngoặc kép, không in nghiêng, dấy phẩy cuối tên),
Tên tạp chí hoặc tên sách (in nghiêng, dấu phẩy cuối tên)
Tập (không có dấu ngăn cách),
Số (đặt trong ngoặc đơn, dấu phẩy sau ngoặc đơn),
Các số trang (gạch ngang giữa hai chữ số, dấu chấm kết thúc).

- Tài liệu tham khảo trên internet
Một tài liệu tham khảo dạng này cần phải ghi đầy đủ các thông tin theo trình tự như sau:
Tên tác giả (thời gian công bố), tên tài liệu (in nghiêng), địa chỉ website, đường dẫn tới nội dung trích dẫn, thời gian trích dẫn.

2.3. Lập danh mục tài liệu trích dẫn/tài liệu tham khảo

Trước hết, cần phân biệt giữa danh mục tài liệu trích dẫn (Reference) và danh mục tài liệu tham khảo (Bibliography)

- Danh mục tài liệu trích dẫn: Gồm các tài liệu được trích dẫn trong bài viết
- Danh mục tài liệu tham khảo: Bao gồm các tài liệu được trích dẫn và không được trích dẫn trong bài viết nhưng tác giả có tham khảo trong quá trình nghiên cứu và những tài liệu mà tác giả cho là hữu ích với người đọc.

Danh mục tài liệu trích dẫn/tài liệu tham khảo được sắp xếp theo trật tự sau:
- Theo thứ tự A, B, C của họ tác giả (trong và ngoài nước)
- Tài liệu không có tên tác giả thì xếp theo thứ tự A, B, C theo từ đầu của tên cơ quan ban hành tài liệu, báo cáo hay ấn phẩm.

Như vậy, Dân Tài Chính đã giới thiệu cho các bạn sơ qua về cách trình bày một bài báo khoa học mà theo như Dân Tài Chính thì điều này không thừa thãi. Nó giúp cho bạn tránh được các lỗi nhỏ cũng như giúp bạn định hướng tốt hơn khi tiến hành nghiên cứu của mình.

Chúc các bạn thành công!

Nguồn: Dân Tài Chính tổng hợp